Bác sĩ:ThS. BSNT Trần Tiến Tùng
Chuyên khoa:Truyền nhiễm
Năm kinh nghiệm:04 năm
Bệnh não mô cầu, đặc biệt là viêm màng não do não mô cầu, là một trong những bệnh nhiễm trùng có tính nghiêm trọng đối với cả cá nhân và cộng đồng. Bệnh viêm màng não do Neisseria meningitidis có xu hướng tấn công những người trẻ tuổi, tiền sử khỏe mạnh và có thể tiến triển trong vài giờ dẫn đến tử vong.
Tỷ lệ tử vong có thể rất cao nếu nhiễm trùng không được điều trị thích hợp, và di chứng lâu dài có thể nặng nề ngay cả khi bệnh nhân được điều trị thành công. Tỷ lệ tử vong và bệnh tật do bệnh não mô cầu thay đổi rất ít kể từ những năm 1950, chủ yếu là do không có khả năng quản lý hiệu quả tình trạng biến chứng về tim mạch do nội độc tố gây ra bởi vi khuẩn này.
Viêm màng não do mô cầu nguy hiểm đến tính mạng
N. meningitidis có thể gây nhiễm trùng vùng lưu hành và tạo thành dịch bệnh. Một số lượng lớn các cá thể có thể bị nhiễm bệnh trong quần thể trong một khoảng thời gian ngắn. Với việc giảm các trường hợp viêm màng não do Haemophilus influenzae , N. meningitidis hiện đã trở thành nguyên nhân thứ hai gây viêm màng não ở Hoa Kỳ. Phần lớn các trường hợp nhiễm não mô cầu xảy ra ở trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, tiến triển của bệnh có thể rất nhanh chóng. Các đặc điểm lâm sàng có thể khá nghiêm trọng với sốc, xuất huyết dưới da và niêm mạc, huyết khối mạch tứ chi, mê sảng và hôn mê dẫn đến tử vong trong vòng 24 giờ.
Trong cộng đồng, có tới 25% người lành mang vi khuẩn não mô cầu ở mũi, hầu, họng. Tại Việt Nam, não mô cầu khuẩn nhóm A, B và C là thường gặp nhất. Ngoài ra, não mô cầu khuẩn còn có thêm những nhóm huyết thanh khác như X, Y, W-135.
N. meningitidislà một loại song cầu khuẩn gram âm có đường kính khoảng 0,7 đến 1 micromet. Các mặt tiếp giáp có phần bị san phẳng. Là vi khuẩn hiếu khí hoặc kỵ khí. Não mô cầu tạo ra một chất oxy hóa sẽ oxy hóa thuốc nhuộm không màu tetramethyl-p-phenylenediamine thành màu tím sáng. Thử nghiệm oxidase này đã được sử dụng để xác định ban đầu của sinh vật.
Meningococcicó thể được chia nhỏ thành các nhóm huyết thanh dựa trên các polysaccharid hình mũ riêng biệt, tám nhóm huyết thanh thường gây nhiễm trùng nhất ở người (A, B, C, X, Y, Z, W135 và L). Bộ gen của nhiều chủng não mô cầu gây bệnh đã được xác định trình tự.
Não mô cầu được coi là một sinh vật khó nuôi dưỡng. Việc phân lập thành công khỏi các bệnh phẩm như máu và dịch não tủy (CSF) đòi hỏi sự cẩn thận trong việc xử lý mẫu. Sinh vật rất nhạy cảm với lạnh, pH cao và độ ẩm thấp, do đó, các mẫu vật phải được xử lý nhanh chóng.
Viêm não mô cầu là bệnh nguy hiểm, có nguyên nhân từ virus
Kết quả điều trị của bệnh do não mô cầu phụ thuộc vào thời gian bắt đầu điều trị kháng sinh và hỗ trợ cho bệnh nhân là sớm hay muộn, một số phương pháp đã được thực hiện để giảm thời gian chẩn đoán. Việc sử dụng kháng huyết thanh đặc hiệu chống đông tụ trong hệ thống đông máu đã được sử dụng thành công trong việc xác định sớm nhiễm N. meningitidis của dịch não tủy. Phản ứng chuỗi polymerase cũng có thể xác định N. meningitidis trong các mẫu lâm sàng.
Lâm sàng:
Khởi phát
Bệnh thường khởi phát cấp tính với một số biểu hiện của nhiễm khuẩn như sốt, mệt mỏi, trẻ nhỏ có thể quấy khóc không rõ lý do. Những thay đổi về tính tình, sự linh hoạt của bệnh nhân cũng là một trong những triệu chứng sớm và quan trọng trong chẩn đoán bệnh. Hoặc bệnh cũng có thể khởi phát một cách cấp tính với các triệu chứng nặng của một nhiễm khuẩn huyết và nhanh chóng dẫn đến viêm màng não sau vài giờ
Giai đoạn toàn phát
Biểu hiện bệnh rõ với hai hội chứng chính
Ban xuất huyết hoại tử hình sao trong nhiễm não mô cầu
Cận lâm sàng
- Xét nghiệm cơ bản: Bạch cầu tăng cao, phần lớn là bạch cầu đa nhân trung tính, chỉ số viêm CRP, PCT tăng cao. Ngoài ra điện giải đồ máu có thể thay đổi
Trên cơ thể của người bình thường, cụ thể là vùng hầu họng của người bình thường, vi khuẩn não mô cầu có thể trú ngụ mà không gây ra bất cứ một triệu chứng nào. Khi có các yếu tố thuận lợi, vi khuẩn có thể xâm nhập và gây bệnh. Cũng giống như các căn nguyên lây truyền qua đường hô hấp khác, vi khuẩn có thể lây qua các giọt bắn của người mang vi khuẩn khi ho, hắt hơi, đặc biệt là ở nơi đông người với khoảng cách đủ gần. Tỷ lệ có mang mầm bệnh trong hầu họng cao nhất ở nhóm lứa tuổi thanh thiếu niên, và cao nhất trong thời điểm dịch bệnh ở các khu vực dịch tễ của bệnh.
Vi khuẩn gây viêm màng não mô cầu có thể lây qua đường hô hấp khác
Từ niêm mạc vùng hầu họng, khoảng dưới 1% số bệnh nhân có hiện tượng vi khuẩn não mô cầu xâm nhập vào máu, đi đến các cơ quan, hoặc vượt qua hàng rào máu não, đến được khoang dịch não tủy và gây viêm màng não. Một khi đã gây bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não, bệnh trở nên rất nguy hiểm, điều trị khó khăn và cho dù điều trị khỏi cũng để lại nhiều di chứng thần kinh khó hồi phục.
Các nhóm đối tượng nguy cơ cao của bệnh bao gồm:
Trẻ em là đối tượng nguy cơ dễ mắc bệnh
Dự phòng bằng thuốc:
Chẩn đoán lâm sàng
- Cần dựa vào 3 tiêu chuẩn sau:
+ Dịch tễ: Đang có dịch não mô cầu tại địa phương, hoặc đi qua vùng dịch tễ
+ Lâm sàng có 2 hội chứng chính:
+ Ngoài ra có dấu hiệu phát ban điển hình của não mô cầu
Chẩn đoán xác định:
Khi soi hoặc cấy dịch não tủy phát hiện được vi khuẩn gây bệnh với đặc điểm của vi khuẩn não mô cầu
Cấy dịch não tủy phát hiện được vi khuẩn gây bệnh với đặc điểm của vi khuẩn não mô cầu
Liệu pháp kháng sinh
Sử dụng glucocorticoid: Có thể dùng dexamethasone theo kinh nghiệm ở người lớn và trẻ em bị viêm màng não do vi khuẩn não mô cầu để làm giảm biến chứng.
Chăm sóc hỗ trợ: Bệnh nhân viêm màng não do não mô cầu có thể kèm theo sốc nhiễm khuẩn, rối loạn ý thức và hôn mê, vậy nên cần chăm sóc hỗ trợ tích cực, với mục tiêu chính là đảm bảo hô hấp tuần hoàn thông suốt, phòng tránh bội nhiễm và giảm thiểu biến chứng có thể xảy ra.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!