Bác sĩ:BSCKI Hồ Mạnh Linh
Chuyên khoa:Chuyên khoa Nội
Năm kinh nghiệm:05 năm
Hội chứng niệu đạo được đặc trưng bởi tần suất đi tiểu nhiều lần, tiểu khó và cảm giác đau buốt khó chịu trong và sau khi đi tiểu mà không có bất kỳ bất thường về cấu trúc hoặc tổn thương nào trên đường tiết niệu.
Năm 2002, Hiệp hội Kiểm soát Quốc tế đã khuyến nghị sử dụng thuật ngữ hội chứng đau niệu đạo để thay thế cho hội chứng niệu đạo. Hội chứng niệu đạo cũng được đặc trưng bởi kết quả cấy nước tiểu không phát hiện được vi khuẩn và tần suất đi tiểu thường xuyên hơn vào ban ngày so với ban đêm. Tình trạng tiểu khó và cảm giác đau buốt khi đi tiểu sẽ thuyên giảm sau mỗi lần đi tiểu. Bệnh nhân mắc hội chứng niệu đạo cũng có thể khó bắt đầu đi tiểu, ngồi hoặc đứng rất lâu để chuẩn bị đi tiểu, dòng tiểu yếu, ngắt quãng và cảm giác tiểu không hết, còn nước tiểu trong bàng quang. Cũng có thể bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng hạ vị, bộ phận sinh dục thậm chí là có cả đau hông lưng.
Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán mắc hội chứng niệu đạo là phụ nữ, điển hình là từ 30-50 tuổi.
Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán mắc hội chứng niệu đạo là phụ nữ
Tiết dịch âm đạo bất thường và các tổn thương, viêm nhiễm ở vùng âm đạo cần phải được loại trừ. Tiền sử của bệnh nhân là quan trọng, vì chẩn đoán hội chứng niệu đạo là một trong những chẩn đoán loại trừ, sau khi chắc chắn bệnh nhân không mắc các bệnh khác cần điều trị chuyên biệt.
Mục tiêu điều trị trong hội chứng niệu đạo là giảm bớt sự khó chịu và tần suất tiểu tiện. Điều này thường liên quan đến phương pháp điều trị thử và thay đổi thói quen sinh hoạt, chế độ ăn uống và các loại thuốc kê đơn. Chế độ ăn uống, tập thể dục và giảm căng thẳng đều quan trọng. Kích thích điện thần kinh thư giãn vùng chậu cũng có thể hữu ích ở những bệnh nhân này.
Hội chứng niệu đạo có thể không tìm được nguyên nhân nhưng cũng có thể có nhiều nguyên nhân được tìm thấy gây ra tình trạng bệnh này. Nguyên nhân phổ biến nhất bao gồm các tình trạng bất thường bẩm sinh hoặc mắc phải gây ra hẹp niệu đạo như chấn thương, sẹo hẹp niệu đạo do thủ thuật đặt sonde tiểu, tiền liệt tuyến phì đại hoặc các khối u tiêu khung chèn ép, hẹp niệu đạo bẩm sinh, dị tật lỗ đái thấp.
Ngoài ra các tác nhân gây kích ứng cũng có thể gây ra các triệu chứng niệu đạo:
- Kích ứng với các sản phẩm có mùi thơm, chẳng hạn như nước hoa, xà phòng, bọt tắm và khăn giấy vệ sinh
- Gel diệt tinh trùng
- Một số loại thực phẩm và đồ uống có chứa caffeine
Một số loại thực phẩm và đồ uống có chứa caffeine gây các triệu chứng niệu đạo
- Hóa trị và xạ trị
Tổn thương chấn thương niệu đạo có thể bị gây ra bởi một số hoạt động nhất định, chẳng hạn như:
- Hoạt động tình dục
- Sử dụng màng ngăn tinh trùng dạng chụp cổ tử cung
- Sử dụng băng vệ sinh dạng chèn
- Đạp xe đường dài sai tư thế
Nếu phát hiện bất kỳ căn nguyên vi khuẩn hoặc vi rút nào, đặc biệt là các tác nhân gây bệnh qua đường tình dục, chẩn đoán hội chứng niệu đạo sẽ được loại trừ mà thay vào đó là chẩn đoán viêm niệu đạo.
Các triệu chứng tiết niệu trong hội chứng niệu đạo như sau:
- Tần suất đi tiểu liên quan đến hội chứng niệu đạo thường là 30-60 phút một lần vào ban ngày, gần như không có tiểu đêm.
- Cảm giác khó chịu niệu đạo không liên tục cũng không nghiêm trọng như trong viêm bàng quang, viêm niệu đạo; cơn khó chịu có thể giảm ngay sau khi tiểu tiện; vào ban đêm, không có cơn đau hoặc không nghiêm trọng đến mức làm rối loạn giấc ngủ.
Các triệu chứng tiết niệu trong hội chứng niệu đạo
- Chứng khó tiểu ở những bệnh nhân mắc hội chứng niệu đạo thường được mô tả là cảm giác ngứa ngáy liên tục ở niệu đạo hơn là cảm giác khó chịu khi đi tiểu như những bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu dưới hoặc viêm niệu đạo.
Các triệu chứng liên quan đến đường ruột, rối loạn kinh nguyệt và đầy chướng bụng có thể gợi ý rối loạn chức năng cơ sàn chậu. Kinh nguyệt không đều hoặc quá nhiều có thể do bất thường phụ khoa đặc biệt là ở phụ nữ sau mãn kinh. Thời điểm của chu kỳ kinh cuối cũng có thể gợi ý mang thai như một tác nhân gây kích thích đường tiểu.
- Viêm đường tiết niệu hoặc viêm thận bể thận tái phát do vi khuẩn gây ra
- Dùng một số loại thuốc gây kích ứng niệu đạo
- Quan hệ tình dục mà không có bao cao su
- Nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs)
- Chấn thương niệu đạo do cơ học (đôi khi chỉ là quan hệ tình dục thô bạo)
Nếu bệnh nhân đã gặp tình trạng này trong quá khứ, họ có thể thực hiện các biện pháp sau để giúp hạn chế tái phát trong tương lai:
- Tránh các sản phẩm hóa mỹ phẩm hoặc hoạt động đã biết là gây kích ứng niệu đạo.
- Sử dụng các biện pháp bảo vệ an toàn khi quan hệ tình dục.
Sử dụng các biện pháp bảo vệ an toàn khi quan hệ tình dục
- Kiểm tra sức khỏe định kỳ thường xuyên, điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm niệu đạo kịp thời và triệt để.
- Đi tiểu càng sớm càng tốt sau quan hệ nhằm đào thải các tác nhân gây hại.
- Lau vùng sinh dục từ trước ra sau, tránh nhiễm khuẩn lây ngược từ hậu môn ra trước.
- Tránh mặc quần quá chật.
- Mặc đồ lót chất liệu thoáng mát và thấm hút tốt
Hội chứng niệu đạo được chẩn đoán khi các tác nhân vi khuẩn virus gây viêm niệu đạo được loại trừ hoàn toàn.
Tiền sử và diễn biến bệnh
Trước tiên, bác sĩ sẽ muốn xem xét các triệu chứng cơ năng, diễn biến bệnh và tiền sử bệnh của bệnh nhân.
Các biện pháp tránh thai (nhiều gel tránh thai và bao cao su gây kích ứng) và hoạt động tình dục (ví dụ: giao hợp thô bạo, quan hệ tình dục bằng miệng kéo dài, giao hợp trong bồn tắm nước nóng có nhiều clo hoặc trong vòi hoa sen có sử dụng xà phòng tắm làm chất bôi trơn) có thể gây kích ứng niệu đạo. Tiền sử lạm dụng tình dục có liên quan đến rối loạn chức năng cơ sàn chậu.
Lái xe lâu trong các phương tiện có cơ chế hấp thụ va chạm hạn chế (ví dụ: xe buýt, xe tải), cưỡi ngựa và đi xe đạp đường dài có thể gây kích ứng niệu đạo. Đây là nguyên nhân phổ biến hơn ở nam giới mắc hội chứng niệu đạo hơn ở nữ giới. Phụ nữ có thể mắc các triệu chứng khi mặc quần lót lọt khe hoặc quần jean xanh (đặc biệt là khi không mặc quần lót).
Thuốc lợi tiểu có thể gây ra tiểu nhiều. Các chế phẩm trị viêm xoang và cảm lạnh cholinergic làm tăng trương lực của cổ bàng quang và niệu đạo gần và có thể gây ra các triệu chứng ở một số người.
Điều kiện y tế trước đó cũng rất quan trọng, đặc biệt nếu họ được điều trị bằng phẫu thuật vùng chậu hoặc xạ trị.
Thường xuyên bị ngã, đi khập khiễng hoặc các triệu chứng thần kinh khác có thể gợi ý bất thường về hệ thần kinh trung ương. Bệnh đa xơ cứng có khuynh hướng ảnh hưởng đến phụ nữ ở độ tuổi như hội chứng niệu đạo, và các triệu chứng mơ hồ ở bàng quang thường là triệu chứng ban đầu của bệnh này.
Họ cũng có thể thực hiện kiểm tra thăm dò các chức năng cơ quan và lấy mẫu xét nghiệm nước tiểu. Bác sĩ có thể quyết định lấy mẫu máu hoặc thực hiện siêu âm vùng chậu tiểu khung để loại trừ các nguyên nhân khác, đặc biệt là phì đại tiền liệt tuyến hoặc các khối u chèn ép vùng tiểu khung.
Đôi khi sẽ cần phải sử dụng những phương pháp thăm dò chuyên sâu hơn để hiểu rõ hơn tình trạng bệnh và loại trừ các nguyên nhân khác bao gồm các thăm dò chẩn đoán hình ảnh và nội soi bàng quang.
Xét nghiệm
Một mẫu nước tiểu nên được thu thập để phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu. Phân tích nước tiểu không được phép có hồng cầu bạch cầu và nitrat niệu. Cấy nước tiểu không phát hiện ra vi khuẩn. Nồng độ glucose tăng cao trên kết quả phân tích nước tiểu có thể gợi ý bệnh tiểu đường điều trị không ổn định, gây tăng tần suất đi tiểu.
Một mẫu nước tiểu nên được thu thập để phân tích nước tiểu và cấy nước tiểu
Que thử thai có thể được chỉ định ở những phụ nữ trong độ tuổi thích hợp có chậm kinh hoặc có chu kỳ kinh nguyệt không đều.
Chẩn đoán hình ảnh
Siêu âm hệ tiết niệu có thể được xem xét để giúp loại trừ các nguyên nhân tiết niệu khác.
Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) có thể chi tiết hơn so với chụp cắt lớp vi tính trong việc xác định túi thừa niệu đạo. Ngoài ra, MRI có thể hữu ích trong việc xác định tăng trương lực sàn chậu (biểu hiện là cơ nâng hạ rút ngắn, tăng góc hậu môn trực tràng và giảm khoảng cách hậu môn trực tràng), có thể gợi ý đến hội chứng viêm bàng quang / bàng quang kẽ.
Thăm dò chức năng
Đánh giá niệu động học, bao gồm đo động học bàng quang và dòng tiểu, đo điện cơ của cơ thắt tiết niệu, xác định nước tiểu tồn dư được thực hiện để loại trừ khả năng bàng quang thần kinh, chứng loạn vận động cơ tròn hoặc loạn năng cơ sàn chậu.
Khi nghi ngờ bệnh lý bàng quang, nội soi bàng quang dưới gây mê cũng cho phép đánh giá U bàng quang, sỏi hoặc viêm mãn tính.
Sinh thiết bàng quang được sử dụng để loại trừ ung thư biểu mô tại chỗ. Tăng bạch cầu ái toan và tế bào mast trong các mẫu sinh thiết bàng quang hỗ trợ chẩn đoán viêm bàng quang kẽ.
Mục tiêu điều trị trong hội chứng niệu đạo là giảm bớt sự khó chịu và tần suất tiểu tiện. Điều này thường liên quan đến phương pháp điều trị thử sử dụng liệu pháp hành vi, chế độ ăn uống và y tế. Bác sĩ tiết niệu phải có được sự tin tưởng của những bệnh nhân này và phải cung cấp sự đảm bảo và khuyến khích trong suốt quá trình điều trị.
Thuốcbao gồm:
- Liệu pháp hôcmon thay thế
- Thuốc an thần
- Thuốc chống co thắt
- Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs)
- Thuốc giãn cơ
- Thuốc chẹn alpha giao cảm
- Các chất bảo vệ niêm mạc
- Corticosteroid tại chỗ
- Thuốc kháng sinh
Liệu pháp hành vibao gồm tập cơ thắt, thiền định và thôi miên đã được sử dụng với một số thành công. Tập cơ thắt có nhiều hứa hẹn nhất ở những người có các triệu chứng là do rối loạn cơ thắt khi đi tiểu. Bài tập thư giãn trong khi theo dõi điện cơ có thể giúp bệnh nhân tập luyện lại các cơ của họ để cho phép chúng hoạt động bình thường.
Tập cơ thắt, thiền định và thôi miên đã được sử dụng với một số thành công
Liệu pháp thay đổi chế độ ăn chủ yếu hướng đến việc tăng độ pH trong nước tiểu. Tăng lượng nước uống được cho là có thể làm giảm nồng độ kali trong nước tiểu.
Estrogen tại chỗ đã được chứng minh là cải thiện triệu chứng ở phụ nữ mãn kinh mắc hội chứng niệu đạo.
Châm cứu và điện châm đã được sử dụng ở Trung Quốc với một số lợi ích ngắn hạn. Tuy nhiên, việc thiếu dữ liệu khoa học đầy đủ và chuyên môn của các bác sĩ phương Tây trong việc thực hành châm cứu đã cản trở đáng kể việc thực hành rộng rãi của nó.
Tiêm độc tố botulinum đã cho thấy một số hứa hẹn trong việc điều trị các triệu chứng niệu đạo do bàng quang tăng hoạt kèm theo các rối loạn chức năng khác. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn chưa được thực hiện đối với việc sử dụng nó trong hội chứng niệu đạo.
Phẫu thuật
Trong lịch sử, phẫu thuật chính được sử dụng để điều trị hội chứng niệu đạo là nong niệu đạo. Trước đây, một kỹ thuật thường được sử dụng cho tất cả các hội chứng đau đường tiết niệu của phụ nữ, nong niệu đạo hiếm khi được thực hiện trong thực tế hiện nay. Tuy nhiên, những phụ nữ bị hẹp niệu đạo thực sự là căn nguyên của các triệu chứng của họ sẽ cải thiện đáng kể sau khi nong niệu đạo.
Tình trạng khó bắt đầu đi tiểu, tần suất và tắc nghẽn do hội chứng niệu đạo có thể làm giảm chất lượng cuộc sống rất nhiều. Kết quả của các triệu chứng không thuyên giảm, nhiều bệnh nhân bị hội chứng niệu đạo có thể mắc trầm cảm, lo âu, hoặc các bệnh tâm lý thứ phát khác; sự tồn tại chung của chứng loạn thần kinh đã khiến nhiều bác sĩ phân loại hội chứng niệu đạo như một bệnh tâm thần.
Các triệu chứng của hội chứng niệu đạo thường cải thiện chậm khi bệnh nhân già đi, nhưng vấn đề có thể kéo dài suốt đời. Nhiều bệnh nhân mắc hội chứng niệu đạo tìm đến nhiều bác sĩ để đảm bảo giảm triệu chứng và có nguy cơ bị nhiễm độc, lạm dụng chất gây nghiện và kháng kháng sinh.
Điều quan trọng là phải nhắc nhở bệnh nhân rằng quá trình điều trị thử là lần lượt và kết hợp liệu pháp khác nhau. Có thể mất thời gian để tìm ra phác đồ hiệu quả cho một bệnh nhân cụ thể bị hội chứng niệu đạo.
Tài liệu tham khảo:
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!