Bác sĩ:ThS. BSNT Trần Tiến Tùng
Chuyên khoa:Truyền nhiễm
Năm kinh nghiệm:04 năm
Bệnh sốt rét nằm trong danh sách những loại bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây nên nhiều hệ lụy đối với sức khỏe con người. Sốt rét phân bố nhiều ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á, châu Mỹ và châu Phi. Hàng năm trên thế giới ghi nhận tới 515 triệu người mắc sốt rét, trong đó khoảng 1 - 3 triệu người tử vong và phần lớn là trẻ em sống ở nam sa mạc Sahara và lục địa châu Phi. Căn bệnh này là một trở ngại đáng kể đối với nền kinh tế.
Tại Việt Nam bệnh sốt rét hoành hành quanh năm. Đầu và cuối mùa mưa ở các tỉnh rừng núi phía Bắc là mùa cao điểm của sốt rét. Tương tự ở các tỉnh Tây Nguyên, miền Trung và Đông Nam Bộ, sốt rét gây bệnh trong suốt mùa mưa.
Bệnh sốt rét nếu được cấp cứu và điều trị đúng cách, kịp thời thì hoàn toàn có cơ hội hồi phục. Nhưng nếu bệnh trở nặng thì sẽ diễn tiến vô cùng nhanh chóng và khiến người bệnh tử vong chỉ trong vài giờ đồng hồ hoặc trong vài ngày. Do vậy đa số các ca sốt rét thể nặng cần được chăm sóc và điều trị với chế độ đặc biệt, tỷ lệ tử vong khi mắc sốt rét có thể lên tới 20%.
Bệnh sốt rét nằm trong danh sách những loại bệnh truyền nhiễm phổ biến và gây nên nhiều hệ lụy đối với sức khỏe con người
Đối với trẻ em khi bị sốt rét nghiêm trọng sẽ dễ xảy ra những biến chứng nguy hiểm như tổn thương não trực tiếp và mất máu do sốt rét thể não. Nếu trẻ may mắn sống sót sau khi bị sốt rét thể não thì vẫn có nguy cơ trải qua di chứng suy giảm nhận thức và thần kinh, động kinh hoặc rối loạn nhận thức về sau.
Tác nhân chủ yếu gây ra sốt rét là loài ký sinh trùng sốt rét thuộc chi Plasmodium. Có 5 loài ký sinh trùng thuộc chi này truyền nhiễm bệnh sốt rét ở người, bao gồm:
- Plasmodium falciparum: cực kỳ nguy hiểm.
- Plasmodium malariae: gây bệnh nhưng nguy cơ tử vong thấp hơn.
- Plasmodium ovale: cũng gây bệnh nhưng ít biến chứng tử vong.
- Plasmodium vivax: nguy hiểm ngang với loài Plasmodium falciparum.
- Plasmodium knowlesi: gây sốt rét trên loài khỉ, thường hoạt động ở khu vực Đông Nam Á nhưng vẫn có thể lây bệnh cho con người.
Trung gian chứa ký sinh trùng gây bệnh là muỗi Anopheles. Các loài ký sinh trùng chỉ tồn tại trong cơ thể của muỗi và trong máu người chứ không lưu lạc tự do bên ngoài môi trường. Tổng cộng có tới hơn 422 loài muỗi Anopheles, trong đó có 40 loài là trung gian chính truyền bệnh sốt rét.
Trung gian chứa ký sinh trùng gây bệnh là muỗi Anopheles
Mỗi loài ký sinh trùng khác nhau sẽ có thời gian ủ bệnh tới khi biểu hiện các triệu chứng lâm sàng khác nhau. Cụ thể:
- Plasmodium falciparum: từ 9 - 14 ngày (trung bình là 12 ngày).
Plasmodium falciparum có thời gian ủ bệnh từ 9 - 14 ngày
- Plasmodium malariae: từ 20 đến thậm chí vài tháng.
- Plasmodium vivax: từ 12 - 17 ngày (trung bình là 14 ngày).
- Plasmodium ovale: từ 11 ngày đến 10 tháng.
Nếu bị sốt rét do lây nhiễm từ việc truyền máu thì thời gian ủ bệnh còn tùy theo lượng ký sinh trùng tồn tại trong máu truyền vào, nhưng trung bình thời gian ủ bệnh khá ngắn chỉ kéo dài trong vài ngày là bắt đầu có triệu chứng.
Dựa trên phân loại của Tổ chức Y tế thế giới WHO về bệnh sốt rét, có 2 mức độ lâm sàng của bệnh sốt rét đang lưu hành tại Việt Nam đó là sốt rét thông thường và sốt rét ác tính. Mỗi thể lâm sàng lại có các dấu hiệu khác nhau.
Biểu hiện của sốt rét thông thường
Sốt rét thông thường là khi bệnh nhân chưa xuất hiện các biến chứng và được nhận diện thông qua các dấu hiệu sau:
- Cơn sốt sơ nhiễm: người bệnh phát giác cơn sốt đầu tiên và thường không đặc trưng, bệnh nhân có thể bị sốt cao kéo dài trong khoảng vài ngày.
- Cơn sốt điển hình: người bệnh trải qua 3 giai đoạn của một cơn sốt rét điển hình:
+ Rét run: toàn thân rét run, nổi da gà, môi tái và giai đoạn này kéo dài từ 30 phút tới 2 giờ đồng hồ.
+ Sốt nóng: tình trạng rét run giảm dần, thay vào đó cơ thể nóng lên, đo nhiệt độ có thể lên tới 40 - 41 độ C kèm theo các biểu hiện như thở nhanh, mặt đỏ, mạch nhanh, khát nước, đau đầu, da khô nóng, cảm thấy đau tức nhẹ vùng gan lách. Thời gian kéo dài của giai đoạn này là từ 1 - 3 giờ.
+ Vã mồ hôi: thân nhiệt hạ nhanh, khát nước, mạch bình thường, giảm nhức đầu, vã mồ hôi, cảm thấy dễ chịu hơn.
- Cơn sốt thể cụt: hay gặp ở những bệnh nhân đã từng bị sốt rét nhiều năm trước đó. Đặc điểm là chỉ thấy rét run, sốt không thành cơn và mỗi lần sẽ bị sốt trong khoảng 1 - 2 giờ.
- Thể ký sinh trùng lạnh: hay còn gọi là người lành chứa ký sinh trùng, khi xét nghiệm máu những bệnh nhân này phát hiện thấy có ký sinh trùng nhưng không có biểu hiện sốt. Người bệnh vẫn có khả năng lao động cũng như sinh hoạt bình thường. Thể ký sinh trùng lạnh gặp nhiều ở các khu vực có dịch tễ bệnh sốt rét nặng.
- Mỗi loại ký sinh trùng sẽ gây nên các chu kỳ sốt rét khác nhau, ví dụ như:
- Sốt do Plasmodium vivax: cứ cách 1 ngày lại lên cơn sốt 1 lần.
- Sốt do Plasmodium falciparum: loại này rất nguy hiểm, gây sốt liên tục hàng ngày và cơn sốt thường có tính chất nghiêm trọng, ác tính, nếu không có biện pháp xử lý thì nguy cơ tử vong cao.
- Sốt do Plasmodium ovale và Plasmodium malariae: cách 3 ngày lại sốt 1 cơn.
Các dấu hiệu của sốt rét ác tính
Sốt rét ác tính là khi bệnh nhân đã bộc lộ các biến chứng:
- Thể não: đây là triệu chứng chiếm tới 80 - 95% trong số các ca bị sốt rét ác tính
+ Rối loạn ý thức (mê sảng, li bì hoặc vật vã, nói nhảm), mất ngủ nhiều, sốt cao liên tục, đầu đau nhức dữ dội, nôn mửa hoặc thường xuyên bị tiêu chảy.
+ Hội chứng tâm thần: hôn mê (đột ngột hoặc xảy ra từ từ, dần chìm vào hôn mê sâu), co giật giống như bị động kinh, rối loạn cơ vòng, giãn đồng tử.
+ Suy thận, đi tiểu ít hoặc vô niệu, nồng độ ure huyết cao, tán huyết ồ ạt gây tiểu huyết sắc tố.
+ Biến chứng tử vong của thể não khá cao có thể lên tới 20 - 50%.
Thể não là triệu chứng chiếm tới 80 - 95% trong số các ca bị sốt rét ác tính
- Thể giá lạnh: huyết áp giảm, ra nhiều mô hôi, toàn thân lạnh, da xanh tái, đau đầu.
- Thể tiểu huyết sắc tố: nguyên nhân là do hiện tượng tán huyết ồ ạt với diễn biến nặng, có thể gây nên suy thận, truỵ tim mạch. Các biểu hiện điển hình bao gồm:
+ Bệnh nhân sốt dữ dội theo từng cơn.
+ Nôn khan hoặc nôn ra dịch màu vàng kèm theo đau lưng.
+ Vàng niêm mạc, vàng da.
+ Nước tiểu màu nâu đỏ, sau chuyển thành màu nước vối đặc hoặc có màu cà phê, tiểu ít dần hoặc vô niệu.
+ Huyết sắc tố và hồng cầu giảm mạnh.
+ Thiếu oxy, thiếu máu cấp.
- Thể gan mật:
+ Da và mắt chuyển màu vàng.
+ Nước tiểu và phân màu vàng chứa nhiều muối mật.
+ Buồn nôn và nôn.
+ Rơi vào hôn mê.
- Thể phổi:
+ Bệnh bị thở nhanh, khó thở, tím tái.
+ Khạc ra bọt có màu hồng.
+ Đáy phổi xuất hiện nhiều ran ngáy, ran ẩm.
- Thể tiêu hoá: nôn mửa, đau bụng, hạ thân nhiệt, tiêu chảy cấp.
- Sốt rét ở trẻ em:
+ Những trẻ trên 6 tháng tuổi có nguy cơ cao mắc sốt rét vì không còn khả năng được bảo vệ bởi hệ miễn dịch của mẹ.
+ Biểu hiện khi trẻ bị sốt rét: nôn, bụng chướng, tiêu chảy, sốt cao liên tục, dấu hiệu màng não thậm chí co giật, gan lách to và khả năng tử vong cao.
- Sốt rét ở phụ nữ có thai: đây là đối tượng dễ gặp sốt rét ác tính và nguy cơ cao sẽ dẫn tới sảy thai, thai lưu hoặc bị sinh non.
- Sốt rét bẩm sinh:
+ Tình trạng này khá hiếm gặp, thường là do mẹ bị sốt rét khi mang thai khiến cho tế bào nhau thai bị tổn thương.
+ Trẻ có biểu hiện sốt rét ngay khi chào đời: sốt, quấy khóc, gan lách to, vàng da.
Máu là con đường lây truyền chính của bệnh sốt rét, bao gồm 4 phương thức như sau:
- Do vật trung gian là muỗi: chiếm đại đa số các ca mắc sốt rét.
Do vật trung gian là muỗi
- Lây truyền từ mẹ sang con qua nhau thai.
- Do nguồn máu được truyền có chứa ký sinh trùng gây bệnh sốt rét.
- Sử dụng chung bơm kim tiêm dính máu nhiễm ký sinh trùng sốt rét.
Các nhân tố làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh
- Di cư, đi công tác hoặc du lịch tới những vùng sốt rét đang hoành hành.
- Điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ dân trí thấp không được phổ biến rộng rãi kiến thức về bệnh sốt rét.
- Tập quán lên rừng canh tác nương rẫy, ngủ qua đêm trên rừng.
Tập quán lên rừng canh tác nương rẫy, ngủ qua đêm trên rừng
- Môi trường sống ẩm thấp, ô nhiễm là điều kiện lý tưởng cho sự sinh sôi và phát triển của các loài muỗi mang mầm bệnh.
Chẩn đoán lâm sàng
Có thể là các biểu hiện với 4 đặc điểm điển hình sau:
- Đang bị sốt trên 37,5 độ C, hoặc đã bị sốt liên tục trong 3 ngày gần nhất.
- Không rõ nguyên nhân vì sao bị sốt.
- Đã từng hoặc đang ở trong vùng lưu hành sốt rét trong khoảng 9 tháng trở lại.
- Đáp ứng tốt với thuốc điều trị sốt rét trong 3 ngày.
Chẩn đoán cận lâm sàng
Một ca được xác định là mắc sốt rét là khi có kết quả dương tính thực hiện bằng các xét nghiệm sau:
- Phương pháp nhuộm Giemsa: phương pháp này có giá trị trong việc tìm dấu hiệu ký sinh trùng sốt rét khi soi lam máu được nhuộm Giemsa dưới kính hiển vi quang học.
Phương pháp nhuộm Giemsa
- Phương pháp QBC - Quantitative Buffy Coat: dùng kính hiển vi huỳnh quang để soi.
- Phương pháp nhuộm nhanh AO - Acridine Orange: dùng kính hiển vi huỳnh quang để soi.
- Phương pháp sinh học phân tử (PCR - polymerase chain reaction): khá nhạy trong việc phát hiện ký sinh trùng/mm3 máu, đồng thời có khả năng giúp chẩn đoán sốt rét tái phát hoặc tái nhiễm.
- Các test chẩn đoán nhanh: giúp phát hiện ra kháng nguyên ký sinh trùng sốt rét tồn tại trong máu dựa trên biện pháp miễn dịch sắc ký.
- Phương pháp phát hiện kháng thể kháng ký sinh trùng sốt rét: phát hiện kháng thể có trong huyết thanh của người bị sốt rét bằng phương pháp miễn dịch gắn men ELISA và phương pháp huỳnh quang gián tiếp IFAT.
Ngoài ra cần chẩn đoán phân biệt sốt rét với các bệnh có tính chất tương tự khác như:
- Phân biệt sốt rét thể so nhiễm với sốt xuất huyết Dengue độ 1, sốt mò, nhiễm siêu vi đường hô hấp trên (cúm, Adenovirus), thương hàn.
- Phân biệt thể sốt rét tái phát với áp xe gan, viêm đường tiết niệu, nhiễm khuẩn huyết và viêm đường mật.
- Trong trường hợp bị nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax có thể dùng các thuốc:
+ Chloroquine dùng trong 3 ngày.
+ Hoặc Artesunat dùng trong 7 ngày (không chỉ định sử dụng cho phụ nữ đang mang thai 3 tháng đầu trừ khi bệnh nhân bị sốt rét ác tính).
+ Hoặc Quinin sulfat dùng trong 7 ngày, uống 3 lần/ngày.
- Nếu bị nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum:
- Điều trị bằng thuốc phối hợp có dẫn xuất artemisinin: CV artecan hoặc thuốc viên Arterakine.
- Liều lượng:
+ Trẻ em < 3 tuổi: 1 viên cho ngày đầu, 2 ngày sau mỗi ngày dùng nửa viên.
+ Trẻ em từ 3 - dưới 8 tuổi: ngày đầu uống 2 viên, 2 ngày sau dùng mỗi ngày 1 viên.
+ Trẻ em, thiếu niên từ 8 - dưới 15 tuổi: ngày đầu uống 3 viên, 2 ngày sau mỗi ngày 1,5 viên.
+ Từ 15 tuổi trở lên: ngày đầu là 4 viên, 2 ngày sau uống mỗi ngày 2 viên.
+ Lưu ý: phụ nữ đang mang thai trong 3 tháng đầu không được sử dụng.
Điều trị bằng Primaquine dạng viên 13,2mg:
- Chữa sốt rét nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum: uống trong 1 ngày.
Điều trị bằng Primaquine dạng viên
- Đối với ký sinh trùng Plasmodium vivax: uống 10 ngày liên tục.
- Chống chỉ định: không dùng thuốc này cho bệnh nhi dưới 3 tuổi, thai phụ, người thiếu men G6PD và người bị bệnh gan.
Cách điều trị sốt rét thể ác tính
Dùng Artesunat theo đường tiêm tĩnh mạch. Điều trị cho tới khi người bệnh uống được thì dùng thuốc đường uống trong 7 ngày.
Nhìn chung, việc sử dụng thuốc trong điều trị sốt rét bác sĩ sẽ có sự cân nhắc về liều lượng trong từng trường hợp cụ thể, dựa trên các triệu chứng, biến chứng của mỗi loại sốt rét.
Quý khách hàng vui lòng lựa chọn dịch vụ y tế theo nhu cầu!